Việc chủ yếu huy động vốn ngắn hạn nhưng vẫn phải đáp ứng nhu cầu dài hạn đã tạo sức ép lên lãi suất huy động. Theo đó, việc hạ lãi suất cho vay cũng có phần chậm nhịp...
Ngân hàng Nhà nước lý giải nguyên nhân lãi suất cho vay hiện còn cao
Ngân hàng Nhà nước vừa gửi thông tin liên quan đến điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất, trong đó cơ quan quản lý đã đưa ra các lý giải về nguyên nhân của lãi suất cho vay hiện vẫn cao do đâu.
Dôi dư dự trữ bắt buộc
Ngân hàng Nhà nước cho biết, để giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp và người dân, qua đó góp phần thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế theo chủ trương của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua cơ quan này đã điều hành và kết hợp đồng bộ nhiều công cụ, giải pháp chính sách tiền tệ để triển khai định hướng này.
Cụ thể, từ đầu năm 2023 đến nay, Ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở nhằm ổn định thị trường tiền tệ. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước liên tục duy trì các phiên chào mua giấy tờ có giá với khối lượng, kỳ hạn phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, đảm bảo thanh khoản cho các tổ chức tín dụng luôn trong trạng thái dư thừa, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi trả, thanh toán của nền kinh tế.
Từ ngày 10/3/2023, để thực hiện mục tiêu tăng cung tiền, giảm lãi suất cho vay theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã tăng khối lượng và kéo dài kỳ hạn chào mua giấy tờ có giá hàng ngày để phát tín hiệu sẵn sàng cung ứng vốn cho thị trường tiền tệ.
Với việc điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và sẵn sàng cung ứng thanh khoản kết hợp với việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất chào mua giấy tờ có giá từ mức 6,0%/năm xuống mức 5,5%/năm (từ ngày 15/3/2023) và giảm xuống mức 5,0%/năm (từ ngày 03/4/2023), vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng được đảm bảo và thường trong tình trạng dư thừa (số dư tiền gửi của hệ thống tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước liên tục vượt số dư dự trữ bắt buộc).
Song song với việc điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, từ đầu năm 2023 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung Dự trữ ngoại hối (trên 6 tỷ USD).
Bên cạnh đó, đối với các giao dịch tổ chức tín dụng mua ngoại tệ kỳ hạn với Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng cũng đã gia hạn các giao dịch này với tổng trị giá 3,99 tỷ USD, đồng thời tổ chức tín dụng hủy mua 1,74 tỷ USD từ Ngân hàng Nhà nước, từ đó đã góp phần đưa ra và để lại lưu thông một lượng lớn tiền VND tương ứng.
Đối với các giao dịch tổ chức tín dụng mua ngoại tệ kỳ hạn với Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng cũng đã gia hạn các giao dịch này, qua đó Ngân hàng Nhà nước không hút/trì hoãn việc hút VND từ lưu thông về.
“Các giải pháp nêu trên đã góp phần quan trọng vào việc tạo thanh khoản dư thừa trên thị trường, từ đó bình ổn mặt bằng lãi suất thị trường liên ngân hàng, hỗ trợ tổ chức tín dụng giảm lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế”, Ngân hàng Nhà nước cho biết.
Trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo cao, diễn biến lạm phát quốc tế vẫn khó lường, tuy nhiên, trong nước, lạm phát mặc dù tăng nhưng có xu hướng chậm lại, tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn; thanh khoản các tổ chức tín dụng dư thừa…. Để tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm 2 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5-1%/năm trong tháng 3 và 4/2023.
Đáng chú ý, Ngân hàng Nhà nước đã làm việc với các ngân hàng thương mại đề nghị tiếp tục giảm lãi suất tiền gửi để có điều kiện giảm lãi suất cho vay hỗ trợ khách hàng giảm chi phí tài chính; Theo đó, đến nay, các ngân hàng thương mại đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi từ 0,2-0,8%/năm.
Với những giải pháp và chỉ đạo trên, Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến nay, về cơ bản mặt bằng lãi suất đã ổn định, lãi suất phát sinh mới có xu hướng giảm dần trong tháng đầu năm 2023. Lãi suất tiền gửi bình quân phát sinh mới của các ngân hàng thương mại ở mức khoảng 6,3%/năm (giảm 0,18%/năm so với cuối năm 2022); lãi suất cho vay bình quân VND phát sinh mới của các ngân hàng thương mại ở mức khoảng 9,3%/năm (giảm 0,65%/năm so với cuối năm 2022).
4 yếu tố khiến lãi suất cho vay neo cao
Dù ngành Ngân hàng đã và đang liên tiếp điều chỉnh giảm lãi suất, tuy nhiên, các ý kiến trên thị trường cho rằng, lãi suất cho vay hiện nay vẫn neo ở mức cao, cần tiếp tục điều chỉnh giảm để hỗ trợ nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Vậy, đâu là những nguyên nhân dẫn đến lãi suất cho vay cao như thị trường đề cập?
Để trả lời câu hỏi của thị trường, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra 4 yếu tố khiến lãi suất cho vay hiện nay vẫn ở mức cao.
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế: Kinh tế Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng (tỷ lệ tín dụng/GDP cuối năm 2022 ở mức 125,34% ), trong khi nhu cầu vốn để phát triển kinh tế luôn ở mức cao, tạo áp lực lên lãi suất cho vay.
Sau dịch Covid-19, kinh tế phục hồi trở lại nên nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh gia tăng, hệ thống ngân hàng sử dụng tối đa nguồn huy động cho phép để đáp ứng vốn cho nền kinh tế.
Hiện chênh lệch tiền gửi và tín dụng bằng VND ở mức 167.000 tỷ đồng; hệ số sử dụng vốn trên thị trường 1 (tỷ lệ tín dụng/huy động vốn thị trường 1) bằng VND ở mức 101,45%, giảm so với mức 102,28% cuối năm 2022 nhưng vẫn ở mức rất cao.
Hệ thống ngân hàng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn (khoảng 88% tiền gửi là kỳ hạn 12 tháng trở xuống) nhưng vẫn phải đáp ứng các nhu cầu cho vay trung dài hạn (trên 52% dư nợ tín dụng VND của hệ thống là trung dài hạn) nên đã tạo sức ép lên lãi suất huy động.
Đồng thời, áp lực gia tăng lãi suất luôn tồn tại do Việt Nam có độ mở kinh tế lớn, biến động của thị trường tài chính, tiền tệ thế giới tác động nhanh và mạnh lên lãi suất, tỷ giá trong nước.
Thứ hai, mặt bằng lãi suất thế giới gia tăng trong năm 2022 và vẫn ở mức cao trong các tháng đầu năm 2023. Các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới vẫn tiếp tục triển khai lộ trình thắt chặt chính sách tiền tệ và duy trì lãi suất ở mức cao, Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã 10 lần tăng lãi suất (hiện lãi suất mục tiêu FED Fund ở mức 5,0-5,25%/năm; ECB: lãi suất tái cấp vốn là 3,5%/năm, lãi suất tiền gửi là 3,0%/năm).
Áp lực lạm phát trong nước (lạm phát bình quân 4 tháng năm 2023 ở mức 3,84%; lạm phát cơ bản tăng 4,9%; mục tiêu lạm phát năm 2023 là 4,5%).
Áp lực lạm phát hiện hữu, tiểm ẩn, khiến người dân kỳ vọng lãi suất thực dương nên tổ chức tín dụng khó giảm lãi suất để thu hút tiền gửi, khiến chi phí đầu vào của tổ chức tín dụng ở mức cao. Huy động vốn đến ngày 27/4/2023 tăng 1,78%, chỉ bằng gần 50% so với tốc độ tăng trưởng tín dụng 3,04%.
Thứ ba, Thông tư số 02/2023/TT-NHNN mới ban hành ngày 23/4/2023 cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ khách hàng gặp khó khăn tức là tổ chức tín dụng chưa thu nợ khi đến hạn trong khi tổ chức tín dụng vẫn phải đảm bảo chi trả tiền gửi, làm giảm doanh số cho vay và chậm lại vòng quay vốn trong nền kinh tế, nên gây áp lực trở lại lên khả năng cân đối vốn và dư địa giảm lãi suất.
Đồng thời, hệ thống ngân hàng vẫn đang trong quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, nâng cấp chuẩn mực quản trị điều hành theo thông lệ quốc tế… một số ngân hàng thương mại quy mô nhỏ duy trì lãi suất tiền gửi ở mức cao để giữ khách hàng cũng làm cho việc giảm mặt bằng lãi suất cho vay trở nên khó khăn hơn.
Thứ tư, theo quy định hiện hành, việc xem xét quyết định về lãi suất cho vay là do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận theo cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng.
Trường hợp lãi suất thị trường có biến động hoặc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh các mức lãi suất điều hành dẫn đến việc tổ chức tín dụng điều chỉnh tăng hoặc giảm lãi suất tiền gửi, hoặc tổ chức tín dụng chủ động điều chỉnh giảm lãi suất cho vay, đối với các khoản vay mà tổ chức tín dụng và khách hàng đã thỏa thuận về lãi suất, thì tổ chứ tín dụng tiếp tục áp dụng lãi suất đã thỏa thuận cho tới hết thời hạn khoản vay hoặc đến hết kỳ hạn trả lãi theo thỏa thuận cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Bên cạnh đó, hiện nay Ngân hàng Nhà nước cũng quy định lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND (hiện ở mức 4,5%/năm) của tổ chức tín dụng đối với khách hàng nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn nhằm giảm chi phí vốn vay, tăng khả năng tiếp cận vốn vay theo chỉ đạo của Chính phủ.
Trên cơ sở diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ trong và ngoài nước, Ngân hàng Nhà nước cho biết, sẽ nghiên cứu điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ; đồng thời tiếp tục khuyến khích các tổ chức tín dụng triển khai các giải pháp tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.