Thủy văn ngày 15/6: Nước về hồ ít, sản lượng thủy điện tiếp tục giảm

Báo cáo ngày 16/6 cho thấy, mực nước các hồ thủy điện phía Bắc tăng nhẹ ngày 15/6 trong khi khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên giảm đồng loạt, khiến sản lượng các nhà máy thủy điện chỉ đạt 154,9 triệu kWh, giảm 2,7 triệu kWh.

Theo báo cáo của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) về mực nước các hồ thủy điện trên cả nước, lưu lượng nước về các hồ chứa ngày 15/6/2023 thấp, giảm nhẹ so với ngày 14/6.

Mực nước hồ chứa thủy điện khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ tăng nhẹ; trong khi tại khu vực Đông Nam Bộ mực nước dao động nhẹ, vẫn ở mực nước thấp; khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên mực nước các hồ giảm nhẹ so với ngày hôm qua, mực nước nằm trong phạm vi mực nước tối thiểu theo quy định của Quy trình vận hành.

Lượng nước về hồ chủ yếu để điều tiết nước đảm bảo dòng chảy tối thiểu, các nhà máy thủy điện vận hành phát điện bằng lưu lượng nước về, các nhà máy khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ phát điện cầm chừng với cột nước, công suất thấp để đảm bảo an toàn cho tổ máy khi vận hành, khó có thể đáp ứng đươc việc phát điện theo quy trình vận hành hồ chứa tại thời kỳ này.

Cụ thể, một số hồ xấp xỉ mực nước chết gồm Thác Bà, Bản Vẽ, Thác Mơ, Đồng Nai 3; một số hồ mực nước thấp gồm Sơn La, Hủa Na. Một số thủy điện phát điện cầm chừng cầm chừng với cột nước, công suất thấp gồm Sơn La, Huội Quảng, Bản Chát, Thác Bà, Tuyên Quang, Hủa Na, Trung Sơn, Thác Mơ, Đồng Nai 3.

Dự báo tình hình thủy văn, lưu lượng nước về hồ 24h tiếp tục giảm nhẹ; mực nước các hồ khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ dao động nhẹ, ở mức thấp.

Thủy văn Hồ thủy điện Hòa Bình

Hồ thủy điện khu vực Bắc Bộ

Các hồ thủy điện tại khu vực Bắc Bộ lưu lượng về hồ thấp, giảm nhẹ so với ngày 14/6: Hồ Lai Châu: 640 m3/s; Hồ Sơn La: 320 m3/s; Hồ Hòa Bình: 356 m3/s; Hồ Thác Bà: 180m3/s; Hồ Tuyên Quang: 268 m3/s; Hồ Bản Chát: 384 m3/s.

Hồ thủy điện Mực nước hồ ngày 15/6 Mực nước chết Mực nước hồ ngày 15/6 so với ngày 14/6 Mực nước hồ ngày 15/6 so với mực nước chết Quy định mực nước tối thiểu Hồ Lai Châu 274,54 m 265 m -0,24 m +9,54 m Hồ Sơn La 177,49 m 175 m +0,32 m +2,49 m Hồ Hòa Bình 102,78 m 80 m 0 m +22,78 m 81,9 m Hồ Thác Bà 46,24 m 46 m +0,15 m +0,24 m 46,5 m Hồ Tuyên Quang 94,16 m 90 m +0,48 m +4,16 m 90,7 m Hồ Bản Chát 435,2 m 431 m +1,35 m +4,2 m

Hồ thủy điện khu vực Bắc Trung Bộ

Các hồ thủy điện khu vực Bắc Trung Bộ lưu lượng về hồ thấp, giảm nhẹ so với ngày 14/6: Hồ Trung Sơn: 157 m3/s; Hồ Bản Vẽ: 85 m3/s; Hồ Hủa Na: 38 m3/s; Hồ Bình Điền: 5 m3/s; Hồ Hương Điền: 36 m3/s.

Hồ thủy điện Mực nước hồ ngày 15/6 Mực nước chết Mực nước hồ ngày 15/6 so với ngày 14/6 Mực nước hồ ngày 15/6 so với mực nước chết Quy định mực nước tối thiểu Hồ Trung Sơn 154,72 m 150 m +0,72 m +4,72 m 150,7 m Hồ Bản Vẽ 157,06 m 155 m +0,28 m +2,06 m 173,0 đến 176,5 m Hồ Hủa Na 219,05 m 215 m +0,66 m +4,05 m 220,7 m Hồ Bình Điền 66,82 m 53 m +0,77 m +13,82 m 66,8 đến 68,9 m Hồ Hương Điền 50,5 m 46 m +0,09 m +4,5 m 49,1 đến 50,4 m

Hồ thủy điện khu vực Đông Nam Bộ

Các hồ thủy điện khu vực Đông Nam Bộ lưu lượng về hồ thấp, dao động nhẹ so với ngày 14/6: Hồ Thác Mơ: 50 m3/s; Hồ Trị An: 350 m3/s.

Hồ thủy điện Mực nước hồ ngày 15/6 Mực nước chết Mực nước hồ ngày 15/6 so với ngày 14/6 Mực nước hồ ngày 15/6 so với mực nước chết Quy định mực nước tối thiểu Hồ Thác Mơ 199,63 m 198 m -0,13 m +1,63 m 201 m Hồ Trị An 53,44 m 50 m +0,02 m +3,44 m 50,3 m

Hồ thủy điện khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ

Các hồ thủy điện khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ lưu lượng về hồ thấp, giảm nhẹ so với ngày 14/6: Hồ A Vương: 2 m3/s; Hồ Đăkđrink: 13 m3/s; Hồ Sông Bung 4: 25 m3/s; Hồ Sông Tranh 2: 12 m3/s; Hồ Sông Ba Hạ: 79 m3/s; Hồ Sông Hinh: 12 m3/s.

Hồ thủy điện Mực nước hồ ngày 15/6 Mực nước chết Mực nước hồ ngày 15/6 so với ngày 14/6 Mực nước hồ ngày 15/6 so với mực nước chết Quy định mực nước tối thiểu Hồ A Vương 362,89 m 340 m -0,29 m +22,89 m 361,5 đến 363,7 m Hồ Đăkđrink 401,69 m 375 m -0,22 m +26,69 m 319,9 đến 393,5 m Hồ Sông Bung 4 218,23 m 205 m -0,1 m +13,23 m 213,5 đến 215,2 m Hồ Sông Tranh 2 158,62 m 140 m -0,18 m +18,62 m 159,6 đến 161,2 m Hồ Sông Ba Hạ 102,77 m 101 m -0,18 m +1,77 m 102,4 đến 103,2 m Hồ Sông Hinh 204,44 m 196 m -0,09 m +8,44 m 204,3 đến 205,0 m

Hồ thủy điện khu vực Tây Nguyên

Các hồ thủy điện khu vực Tây Nguyên lưu lượng về hồ thấp, giảm nhẹ so với ngày 14/6: Hồ Buôn Kuốp: 88 m3/s; Hồ Buôn Tua Srah: 77 m3/s; Hồ Đại Ninh: 5 m3/s; Hồ Hàm Thuận: 40 m3/s; Hồ Đồng Nai 3: 2 m3/s; Hồ Ialy: 242 m3/s; Hồ Pleikrông: 86 m3/s; Hồ Sê San 4: 335 m3/s; Hồ Thượng Kon Tum: 16 m3/s.

Hồ thủy điện Mực nước hồ ngày 14/6 Mực nước chết Mực nước hồ ngày 14/6 so với ngày 13/6 Mực nước hồ ngày 14/6 so với mực nước chết Quy định mực nước tối thiểu Hồ Buôn Kuốp 410,13 m 409 m -0,41 m +1,13 m 468,4 m Hồ Buôn Tua Srah 470,33 m 465 m +0,01 m +5,33 m 862,4 m Hồ Đại Ninh 864,97 m 860 m -0,18 m +4,97 m 580,3 m Hồ Hàm Thuận 583,12 m 575 m -0,05 m +8,12 m 159,6 đến 161,2 m Hồ Đồng Nai 3 571,56 m 570 m -0,04 m +1,56 m 571,8 m Hồ Ialy 502,89 m 490 m -0,11 m +12,89 m 492,4 m Hồ Pleikrông 548,68 m 537 m -0,16 m +11,68 m 547,6 m Hồ Sê San 4 211,41 m 210 m -0,17 m +1,41 m 210,3 m Hồ Thượng Kon Tum 1.146,90 m 1.138 m -0,36 m +8,90 m 1.141,6 m

 

Số liệu từ Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (A0) cho thấy, ngày 15/6, sản lượng toàn hệ thống điện quốc gia đạt 832,3 triệu kWh, tăng 16,5 triệu kWh so với ngày 14/6. Trong đó, thủy điện đạt 154,9 triệu kWh, giảm 2,7 triệu kWh; nhiệt điện than 463,4 triệu kWh, tăng 29,3 triệu kWh; tuabin khí (Gas + dầu DO) 89 triệu kWh, giảm 3,1 triệu kWh; điện mặt trời 79 triệu kWh, tăng 2,2 triệu kWh; điện gió 25,1 triệu kWh, giảm 8,6 triệu kWh; nhập khẩu điện 19,1 triệu kWh, giảm 0,7 triệu kWh; nguồn khác 1,8 triệu kWh, tăng 0,1 triệu kWh so với ngày 14/6.

Công suất lớn nhất trong ngày 15/6 rơi vào lúc 14h30, đạt 39.768,9 MW

Tại văn bản số 225/TB-VPCP ngày 15/6/2023 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thường trực Chính phủ tại cuộc họp về những nhiệm vụ, giải pháp lớn ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế trong tình hình hiện nay, Thường trực Chính phủ giao Bộ Công Thương thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước, có chương trình, kế hoạch, biện pháp cụ thể đảm bảo đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng. Tập trung triển khai Quy hoạch điện VIII, đẩy nhanh tiến độ Nhà máy điện Quảng Trạch II; phối hợp với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai dự án truyền tải 500kV từ miền Trung ra miền Bắc. Phối hợp với Bộ Nội vụ, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp để khẩn trương hoàn thiện thủ tục điều chuyển Trung tâm Điều độ hệ thống Điện quốc gia về Bộ Công Thương trong tháng 6/2023;

Nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, huy động nguồn lực điện mặt trời áp mái phục vụ cho hoạt động dân sinh và các cơ quan công sở; cơ chế mua bán điện trực tiếp (hoàn thành trong tháng 7/2023);

Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chỉ đạo các Tập đoàn, Tổng công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong tham gia thực hiện các công trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội; tập trung chỉ đạo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tập đoàn Điện lực Việt Nam giải quyết dứt điểm việc thiếu điện trong tháng 6/2023; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương trong xử lý các vướng mắc phát sinh.