Toàn cảnh bức tranh kinh tế 8 tháng đầu năm 2024

Trong 8 tháng năm 2024, lạm phát tiếp tục được kiểm soát khiến nền kinh tế - xã hội nước ta phát triển trên đà tăng trưởng...
toàn cảnh KINH TE 8 tháng năm 2024.jpg

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, dù gặp nhiều thách thức, nền kinh tế Việt Nam trong 8 tháng năm 2024 đạt được nhiều kết quả tích cực: Xuất siêu 19,07 tỷ USD; Vốn FDI đạt 14,1 tỷ USD (tăng 8% so với cùng kỳ năm 2023); các lĩnh vực xuất khẩu và đầu tư cùng các hoạt động dịch vụ... đều tăng trưởng theo xu hướng tích cực.

CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG

Giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng tăng - giảm đan xen, trong đó giá lương thực, thực phẩm, giá nhà ở thuê tăng so với tháng 7/2024, giá xăng dầu trong nước giảm theo giá thế giới. Tính chung, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ổn định so với tháng trước. So với tháng 12/2023, CPI tháng 8 năm 2024 tăng 1,89% và so với cùng kỳ năm 2023 tăng 3,45%.

chỉ số CPI của Việt Nam tháng 8 năm 2024.jpg

Lũy kế 8 tháng năm 2024, CPI tăng 4,04% so với cùng kỳ năm ngoái; lạm phát cơ bản tăng 2,71%. Dù CPI trong tháng ổn định, song trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 10 nhóm có chỉ số giá tăng nhẹ; riêng nhóm giao thông giảm giá so với tháng trước.

Cũng trong tháng 8/2024, lạm phát cơ bản tăng 0,24% so với tháng trước, tăng 2,53% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 8 tháng năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,71% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung (4,04%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế và xăng dầu là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.

HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ

Nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước phục hồi, cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của du lịch đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành thương mại dịch vụ từ đầu năm đến nay.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng 8 năm 2024.jpg

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8 năm 2024 tăng nhẹ 0,4% so với tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 8 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,5% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 14,3%; doanh thu du lịch lữ hành tăng 26,2%.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong 8 tháng đầu năm 2024.jpg

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng 8 năm 2024 ước đạt 526,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 8,2%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 6,5%; may mặc tăng 8,2%; dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 9,7%; du lịch lữ hành tăng 7,1%.

Lũy kế 8 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 4.148,4 nghìn tỷ đồng, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ tăng 10,3%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,3% (cùng kỳ tăng 8,0%).

HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP

Trong tháng, cả nước có 13,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là hơn 124,6 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký gần 71,8 nghìn lao động, giảm 15,2% về số doanh nghiệp, giảm 6,2% về vốn đăng ký và giảm 12,1% về số lao động so với tháng 7/2024. So với cùng kỳ năm 2023, giảm 12,8% về số doanh nghiệp, giảm 16,2% về số vốn đăng ký và giảm 22,6% về số lao động.

Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng 8 năm 2024 đạt 9,3 tỷ đồng, tăng 24,4% so với tháng trước và giảm 3,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, cả nước còn có gần 8,5 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 12,7% so với tháng trước và tăng 35,6% so với cùng kỳ năm 2023.

Tình hình thành lập doanh nghiệp trong 8 tháng đầu năm 2024.jpg

Lũy kế 8 tháng năm 2024, cả nước có gần 110,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 994,7 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký hơn 672,4 nghìn lao động, tăng 4,4% về số doanh nghiệp, tăng 0,7% về vốn đăng ký và giảm 1,9% về số lao động so với cùng kỳ năm ngoái. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 8 tháng năm 2024 đạt 9,0 tỷ đồng, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm 2023.

Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 8 tháng năm 2024 là hơn 2.041,0 nghìn tỷ đồng, giảm 5,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, cả nước có hơn 57,3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 25,3% so với cùng kỳ năm 2023), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong 8 tháng năm 2024 lên gần 168,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2023.

Bình quân một tháng có hơn 21 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

CÁN CÂN XUẤT - NHẬP KHẨU

Các thị trường xuất khẩu, nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2024.jpg

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trong tháng 8 năm 2024 sơ bộ đạt 70,65 tỷ USD, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 8 tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 511,11 tỷ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó xuất khẩu tăng 15,8%; nhập khẩu tăng 17,7%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 19,07 tỷ USD.

Về xuất khẩu:

Kinh ngạch xuất khẩu một số mặt hàng 8 tháng đầu năm 2024.jpg

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 8 năm 2024 sơ bộ đạt 37,59 tỷ USD, tăng 3,7% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 10,84 tỷ USD, tăng 9,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 26,75 tỷ USD, tăng 1,5%.

So với cùng kỳ năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng tăng 14,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 21,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 12%. Lũy kế 8 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 265,09 tỷ USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 73,88 tỷ USD, tăng 21%, chiếm 27,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 191,21 tỷ USD, tăng 13,9%, chiếm 72,1%.

Trong 8 tháng năm 2024, có 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 62,6%).

Về nhập khẩu:

Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng 8 tháng đầu năm 2024.jpg

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 8 năm 2024 sơ bộ đạt 33,06 tỷ USD, giảm 2,4% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 12 tỷ USD, tăng 1,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,06 tỷ USD, giảm 4,5%.

So với cùng kỳ năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng tăng 12,4%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 13,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 11,9%. Lũy kế 8 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 246,02 tỷ USD, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 89,58 tỷ USD, tăng 19,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 156,44 tỷ USD, tăng 16,5%.

Trong 8 tháng năm 2024, có 38 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 90,8% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 2 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 40,7%).

Cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ tháng 8 năm 2024 xuất siêu 4,53 tỷ USD. Lũy kế 8 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ xuất siêu 19,07 tỷ USD (cùng kỳ năm 2023 xuất siêu 19,9 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 15,7 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 34,77 tỷ USD.

CHỈ SỐ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP

Chỉ số sản xuất công nghiệp của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2024.jpg

Sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 8 năm 2024 tiếp tục xu hướng tăng trưởng tích cực, ước tính chỉ số sản xuất công nghiệp trong tháng tăng 2,0% so với tháng trước và tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 8 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp ước tính tăng 8,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

Một số sản phẩm công nghiệp tăng cao trong 8 tháng đầu năm 2024.jpg

IIP tháng 8 năm 2024 ước tính tăng 2,0% so với tháng trước và tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, so với cùng kỳ năm ngoái, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,9%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,6%; riêng ngành khai khoáng giảm 1,5%.

Một số sản phẩm công nghiệp giảm trong 8 tháng đầu năm 2024.jpg

Lũy kế 8 tháng năm 2024, IIP ước tính tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ giảm 0,2%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,7% (cùng kỳ giảm 0,4%), đóng góp 8,4 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,6%, đóng góp 1,0 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,8%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 6,0%, làm giảm 0,9 điểm phần trăm.

THU - CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Thu ngân sách Nhà nước trong tháng ước tăng 17,8% so với cùng kỳ năm 2023. Chi ngân sách Nhà nước ước tăng 1,9% so với cùng kỳ năm ngoái, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.

Thu ngân sách Nhà nước:

Thu ngân sách nhà nước 8 tháng đầu năm 2024.jpg

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 8 năm 2024 ước đạt 101,3 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 8 tháng năm 2024 ước đạt 1.335,6 nghìn tỷ đồng, bằng 78,5% dự toán năm và tăng 17,8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, một số khoản thu chính như sau:

- Thu nội địa tháng 8 năm 2024 ước đạt 81,3 nghìn tỷ đồng; lũy kế 8 tháng năm 2024 ước đạt gần 1.117,2 nghìn tỷ đồng, bằng 77,3% dự toán năm và tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2023.

- Thu từ dầu thô tháng 8 năm 2024 ước đạt 5,0 nghìn tỷ đồng; lũy kế 8 tháng năm 2024 ước đạt 39,4 nghìn tỷ đồng, bằng 85,6% dự toán năm và giảm 2,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

- Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu tháng 8 năm 2024 ước đạt 15,0 nghìn tỷ đồng; lũy kế 8 tháng năm 2024 ước đạt 178,7 nghìn tỷ đồng, bằng 87,6% dự toán năm và tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2023.

Chi ngân sách Nhà nước:

Chi ngân sách nhà nước 8 tháng đầu năm 2024.jpg

Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 8 năm 2024 ước đạt 158,8 nghìn tỷ đồng; lũy kế 8 tháng năm 2024 ước đạt 1.104,2 nghìn tỷ đồng, bằng 52,1% dự toán năm và tăng 1,9% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, chi thường xuyên 8 tháng năm 2024 ước đạt 758,7 nghìn tỷ đồng, bằng 60,2% dự toán năm và tăng 6,0% so với cùng kỳ năm 2023; chi đầu tư phát triển đạt 273,6 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% và giảm 8,9%; chi trả nợ lãi 71,1 nghìn tỷ đồng, bằng 63,7% và tăng 8,9%.

VẬN TẢI HÀNH KHÁCH VÀ HÀNG HÓA

Hoạt động vận tải tháng 8 năm 2024 rất sôi động, duy trì tốc độ tăng tích cực so với cùng kỳ năm 2023 do du lịch phục hồi mạnh mẽ và nhu cầu vận chuyển phục vụ sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa tăng cao. Trong đó, vận tải hành khách tăng 13,2% về vận chuyển và tăng 16,2% về luân chuyển; vận tải hàng hóa tăng 13,2% về vận chuyển và tăng 10,5% về luân chuyển.

Lũy kế 8 tháng năm 2024, vận chuyển hành khách tăng 7,5% và luân chuyển tăng 12,7% so với cùng kỳ năm 2023; vận chuyển hàng hóa tăng 13,0% và luân chuyển tăng 11,8%.

Tình hình vận tải hàng hóa trong 8 tháng đầu năm 2024.jpg

Vận tải hành khách tháng 8 năm 2024 ước đạt 442,0 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 1,9% so với tháng trước và luân chuyển 24,9 tỷ lượt khách/km, tăng 2,5%. Lũy kế 8 tháng năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 3.234,3 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2023 và luân chuyển đạt 183,0 tỷ lượt khách/km, tăng 12,7%.

Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 3.222,3 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm ngoái và 144,6 tỷ lượt khách/km luân chuyển, tăng 8,6%; vận tải ngoài nước ước đạt 12,0 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 19,7% và 38,4 tỷ lượt khách/km luân chuyển, tăng 31,5%.

Vận tải hàng hóa tháng 8 năm 2024 ước đạt 215,1 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 1,3% so với tháng trước và luân chuyển 47,1 tỷ tấn/km, giảm 0,5%. Lũy kế 8 tháng năm 2024, vận tải hàng hóa ước đạt 1.686,3 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 13,0% so với cùng kỳ năm 2023 và luân chuyển 351,2 tỷ tấn/km, tăng 11,8%.

Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 1.655,6 triệu tấn vận chuyển, tăng 13,1% và 212,8 tỷ tấn/km luân chuyển, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm ngoái; vận tải ngoài nước ước đạt 30,7 triệu tấn vận chuyển, tăng 5,0% và 138,4 tỷ tấn/km luân chuyển, tăng 19,1%.

KHÁCH QUỐC TẾ ĐẾN VIỆT NAM

Khách quốc tế đến việt nam 8 tháng đầu năm 2024 phân theo vị trí địa lý.jpg

Nhờ chính sách thị thực thuận lợi, các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch được đẩy mạnh cùng với những giải thưởng du lịch danh giá được các tổ chức quốc tế trao tặng đã thu hút khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng cao.

Trong tháng, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 1,43 triệu lượt người, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 8 tháng năm 2024, khách quốc tế đến nước ta đạt hơn 11,4 triệu lượt người, tăng 45,8% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng 1,0% so với cùng kỳ năm 2019 (năm chưa xảy ra dịch Covid-19).

Khách quốc tế đến việt nam trong 8 tháng đầu năm 2024 phân theo phương tiện đến.jpg

Trong tổng số hơn 11,4 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam 8 tháng năm 2024, khách đến bằng đường hàng không đạt 9,7 triệu lượt người, chiếm 84,7% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam và tăng 41,0% so với cùng kỳ năm 2023; khách đến bằng đường bộ đạt 1,6 triệu lượt người, chiếm 13,8% và tăng 73,3%; khách đến bằng đường biển đạt 165,6 nghìn lượt người, chiếm 1,5% và gấp 2,8 lần cùng kỳ năm ngoái.

VỐN FDI ĐĂNG KÝ CẤP MỚI

Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương tập trung đẩy mạnh thực hiện.

Quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án được cấp phép mới tại Việt Nam trong 8 tháng năm 2024.jpg

Tính chung 8 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 47,8% kế hoạch năm, tăng 2,0% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện tại Việt Nam 8 tháng năm 2024 ước đạt 14,15 tỷ USD, tăng 8,0% so với cùng kỳ năm ngoái.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 8 năm 2024 ước đạt 62,1 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2023, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý đạt 10,9 nghìn tỷ đồng, giảm 0,5%; vốn địa phương quản lý đạt 51,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7%. Lũy kế 8 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 363,1 nghìn tỷ đồng, bằng 47,8% kế hoạch năm và tăng 2,0% so với cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ bằng 48,6% và tăng 24,5%).

Trong số 66 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 8 tháng năm 2024, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 4,66 tỷ USD, chiếm 38,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trung Quốc gần 1,7 tỷ USD, chiếm 14,2%; Đặc khu hành chính Hồng Kông (TQ) 1,41 tỷ USD, chiếm 11,7%; Nhật Bản 1,24 tỷ USD, chiếm 10,3%; Thổ Nhĩ Kỳ 731,3 triệu USD, chiếm 6,1%; Đài Loan (TQ) 660,3 triệu USD, chiếm 5,5%.

Địa phương thu hút vốn FDI đăng ký cấp mới trong 8 tháng đầu năm 2024.jpg

7 địa phương dẫn đầu về thu hút vốn FDI đăng ký cấp mới là Bà Rịa - Vũng Tàu, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hà Nội, Đồng Nai, Hưng Yên và Bình Dương.