Sáng 18/1, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) với tỷ lệ 91,28% tổng số đại biểu tán thành.
Theo đó, về một số quy định liên quan đến xử lý sở hữu chéo, thao túng, chi phối tổ chức tín dụng (tại khoản 24 điều 4, điều 63, điều 136), có ý kiến đề nghị quy định người có liên quan phù hợp với loại hình quỹ tín dụng nhân dân.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã quy định phạm vi người có liên quan đối với quỹ tín dụng nhân dân hẹp hơn so với các loại hình tổ chức tín dụng khác và thể hiện tại điểm h khoản 24 điều 4 của dự thảo Luật.
Có ý kiến cho rằng biện pháp giảm tỷ lệ sở hữu cổ phẩn, giảm giới hạn cấp tín dụng chưa xử lý được vấn đề sở hữu chéo, thao túng, chi phối như thời gian vừa qua, quan trọng là việc giám sát thực thi.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với ý kiến của đại biểu Quốc hội, bên cạnh quy định việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần, giới hạn cấp tín dụng và một số quy định trong tổ chức, quản trị, điều hành, dự thảo Luật đã bổ sung quy định về cung cấp, công bố công khai thông tin (điều 49).
Trong đó, cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên của tổ chức tín dụng phải thực hiện cung cấp thông tin, tổ chức tín dụng phải công bố công khai thông tin của các cổ đông này để bảo đảm minh bạch.
Bên cạnh đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước nâng cao hiệu quả phối hợp với bộ, ngành có liên quan, đồng thời có giải pháp tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, bảo đảm hạn chế cao nhất tình trạng sở hữu chéo, thao túng, chi phối tổ chức tín dụng.
Về hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng (tại điều 5, điều 113), Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉnh lý theo hướng bổ sung quy định về hành vi bị nghiêm cấm như sau: tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, người quản lý, người điều hành, nhân viên của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài gắn việc bán sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc với việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức.
Đồng thời, giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định phạm vi hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng để phù hợp với tính chất và hoạt động của lĩnh vực ngân hàng.
Về biện pháp hỗ trợ tổ chức tín dụng được can thiệp sớm, Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo, điều 154 quy định việc công khai báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp tổ chức tín dụng đang được kiểm soát đặc biệt.
Do vậy, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu theo hướng quy định về dự phòng rủi ro chưa được trích lập, số lãi phải thu phải thoái chưa phân bổ như tại điểm a và điểm b khoản 2 điều 159.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ trong quá trình triển khai thực hiện Luật chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm và có giải pháp phù hợp để nắm rõ thực trạng tài chính của các tổ chức tín dụng này khi được áp dụng cơ chế hỗ trợ, bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng.
Đối với chấm dứt can thiệp sớm, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với ý kiến về việc Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm trong việc ra văn bản áp dụng thực hiện cũng như chấm dứt thực hiện can thiệp sớm tương tự như quy định tại khoản 6 điều 130a Luật hiện hành.
Để thống nhất với quy định tại khoản 2 Điều 156, chỉnh lý điểm a khoản 1 và điểm a khoản 2 điều 161 theo hướng Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt việc thực hiện văn bản yêu cầu quy định khoản 2 điều 156 của Luật này khi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khắc phục được tình trạng dẫn đến can thiệp sớm. Ngân hàng nhà nước có trách nhiệm theo dõi, giám sát và bảo đảm thực trạng của tổ chức tín dụng đã khắc phục được tình trạng dẫn đến can thiệp sớm.
Đối với việc cho vay đặc biệt quỹ tín dụng nhân dân, tại khoản 3 điều 192 của dự thảo Luật đã quy định ngân hàng hợp tác xã chỉ cho vay đặc biệt đối với quỹ tín dụng nhân dân theo quy định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước. Do đó, dự thảo Luật chỉnh lý khoản 2 điều 193 theo hướng quy định ngân hàng hợp tác xã quyết định cho vay đặc biệt đối với quỹ tín dụng nhân dân.
Về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉnh lý theo hướng quy định về chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản là tài sản bảo đảm để thu hồi nợ tại khoản 3 điều 200 và về chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản đã nhận làm tài sản bảo đảm trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành để thu hồi nợ tại khoản 15 điều 210 của dự thảo Luật
Cuối cùng, luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024, trừ quy định tại khoản 2 điều 209. Khoản 3 điều 200 và khoản 15 điều 210 của luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2025.
Ngọc Nhi