Ngành nông, lâm, thủy sản quý 1/2023: Cụ thể hoá những tín hiệu tích cực

Mới đây, Tổng cục Thống kê đã công bố báo cáo kinh tế - xã hội quý 1/2023. Theo đó, sản xuất nông nghiệp diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển. Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định. Hoạt động nuôi trồng thủy sản đạt kết quả khả quan...

Sasản lượng nông lâm thủy sản

Về nông nghiệp, tính đến giữa tháng 3, cả nước gieo trồng được 2.922,3 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 98,7% cùng kỳ năm trước. Trong đó, các địa phương phía Bắc đạt 1.042,9 nghìn ha, bằng 99,1%; các địa phương phía Nam đạt 1.879,4 nghìn ha, bằng 98,4%, riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.478,7 nghìn ha, bằng 98,1%.

Cùng thời điểm, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn tất công tác thu hoạch lúa vụ mùa 2022-2023. Diện tích gieo trồng lúa mùa của toàn vùng đạt 177,9 nghìn ha, tăng 6,7 nghìn ha so với vụ mùa năm trước. Năng suất lúa mùa toàn vùng đạt 51,4 tạ/ha, giảm 0,1 tạ/ha so với vụ mùa trước; sản lượng đạt 914 nghìn tấn, tăng 32,8 nghìn tấn do diện tích gieo cấy tăng.

Tính đến giữa tháng 3, tiến độ gieo trồng một số cây rau màu vụ đông xuân như rau đậu, ngô tăng so với cùng kỳ năm trước; khoai lang, lạc, đậu tương giảm chủ yếu do hiệu quả kinh tế không cao.

Sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm quý 1/2023 tăng so với cùng kỳ năm trước do thời tiết thuận lợi, giá bán sản phẩm ổn định. Trong đó, chè búp đạt 172,3 nghìn tấn, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu đạt 146,2 nghìn tấn, tăng 1,5%; cao su đạt 130,6 nghìn tấn, tăng 2,9%; điều đạt 226,3 nghìn tấn, tăng 7,4%.

sản xuất nông lâm thủy sảnNguồn: Tổng cục Thống kê

Đối với cây ăn quả, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thay những cây lâu năm kém hiệu quả như tiêu, thanh long, dứa sang trồng sầu riêng, mít, thêm vào đó nhiều diện tích cây ăn quả đã đến thời kỳ cho thu hoạch nên sản lượng tăng so với cùng kỳ năm trước: sầu riêng đạt 108,3 nghìn tấn, tăng 27,8%; mít đạt 142,9 nghìn tấn, tăng 20,7%; cam đạt 310,4 nghìn tấn, tăng 5,9%; quýt đạt 44,3 nghìn tấn, tăng 4,1%; chuối đạt 671,3 nghìn tấn, tăng 2,6%; xoài đạt 184,4 nghìn tấn, tăng 1,9%. Riêng sản lượng thanh long đạt 340 nghìn tấn, giảm 2,8%.

Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực tăng cả về sản lượng và giá trị so với cùng kỳ năm trước: gạo đạt 1,8 triệu tấn, tương đương 952 triệu USD, tăng 19,3% về sản lượng và tăng 30,2% về giá trị; điều đạt 122 nghìn tấn tương đương 708 triệu USD, tăng 16,6% và tăng 14,2%; rau quả đạt 935 triệu USD, tăng 10,6%.

Chăn nuôi bò trong quý phát triển ổn định. Chăn nuôi gia cầm phát triển khá, dịch bệnh được kiểm soát. Chăn nuôi lợn có mức tăng sản lượng cao nhưng lại gặp khó khăn do giá bán thịt hơi ở mức thấp, trong khi chi phí thức ăn chăn nuôi tăng cao. sản xuất nông lâm thủy sảnNguồn: Tổng cục Thống kê

Về lâm nghiệp, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tháng 3/2023 ước đạt 19,6 nghìn ha, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 10,4 triệu cây, tăng 3,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.305,4 nghìn m3, tăng 2,4%.

Tính chung quý 1/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 38,7 nghìn ha, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 27,4 triệu cây, tăng 6%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3.349,2 nghìn m3, tăng 4,2%.

Về thủy sản, sản lượng thủy sản tháng 3/2023 ước đạt 703,8 nghìn tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: cá đạt 519 nghìn tấn, tăng 1,1%; tôm đạt 63 nghìn tấn, tăng 5,9%; thủy sản khác đạt 121,8 nghìn tấn, tăng 0,6%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước đạt 353,5 nghìn tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá đạt 259,7 nghìn tấn, tăng 3%; tôm đạt 52,1 nghìn tấn, tăng 7,6%.

sản xuất nông lâm thủy sảnNguồn: Tổng cục Thống kê

Sản lượng thu hoạch cá tra trong tháng tiếp tục tăng khá so với cùng kỳ năm trước do Trung Quốc đã mở cửa thông quan cho nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, cùng với đó giá cá tra nguyên liệu duy trì ổn định ở mức cao. Sản lượng cá tra trong tháng ước đạt 128,6 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng tôm thẻ chân trắng trong tháng ước đạt 32,3 nghìn tấn, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm sú đạt 16,2 nghìn tấn, tăng 2,5%.

Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng ước đạt 350,3 nghìn tấn, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: cá đạt 259,3 nghìn tấn, giảm 0,7%; tôm đạt 10,9 nghìn tấn, giảm 1,8%; thủy sản khác đạt 80,1 nghìn tấn, giảm 1,4%.

Sản lượng thủy sản khai thác biển ước đạt 336,9 nghìn tấn, giảm 0,9% so với cùng kỳ do giá xăng dầu vẫn ở mức cao và số lượng tàu thuyền có xu hướng giảm do phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của khai thác thủy sản bền vững.

Tính chung quý 1/2023, sản lượng thủy sản ước đạt 1.889,2 nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 1.404,6 nghìn tấn, tăng 1,4%; tôm đạt 184,5 nghìn tấn, tăng 2,2%; thủy sản khác đạt 300,1 nghìn tấn, tăng 0,7%.

Tin liên quan