Kinh tế Việt Nam phải đối mặt với những rủi ro liên quan đến tăng trưởng thấp hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển và Trung Quốc, nhu cầu trong nước yếu kéo dài, bên cạnh những yếu kém gia tăng ở khu vực tài chính.
Ngân hàng Thế giới trong báo cáo đánh giá mới nhất phân tích, sau khi phục hồi mạnh mẽ vào năm ngoái, kinh tế Việt Nam hiện đang phải đối mặt với nhiều trở ngại trong nước và bên ngoài trong năm 2023.
GDP và thương mại toàn cầu yếu đi làm suy giảm sức cầu bên ngoài đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, gây ảnh hưởng đến tăng trưởng.
Đồng thời, sức cầu trong nước cũng chững lại, nhưng dự kiến vẫn tiếp tục là động lực tăng trưởng chính.
“Điều quan trọng để đảm bảo tăng trưởng trong ngắn hạn là đẩy nhanh tốc độ triển khai đầu tư công và củng cố lòng tin của người tiêu dùng và các nhà đầu tư”, Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh.
Trong dài hạn, Việt Nam có tham vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Tổ chức này khuyến nghị, để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần nâng cao năng suất qua cải thiện các nền tảng căn bản của khu vực tài chính, xử lý những ách tắc về thể chế trong đầu tư công nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt hạ tầng.
Đồng thời, tạo môi trường thuận lợi để khu vực tư nhân trong nước hoạt động hiệu quả hơn, bên cạnh việc xử lý những rủi ro về biến đổi khí hậu và bền vững môi trường.
Năm 2023, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dự kiến ở mức 4,7% do sức cầu trong nước và bên ngoài yếu đi, sau đó phục hồi về mức 5,5% trong năm 2024 và 6,0% trong năm 2025.
Nhu cầu trong nước dự kiến vẫn là động lực tăng trưởng chính, mặc dù tốc độ tăng chậm hơn so với năm ngoái.
Lạm phát bình quân trong năm ước đạt 3,5%, do dự kiến tăng lương công chức, sau đó giảm còn 3,0% trong năm 2024 và 2025 với giả định giá cả năng lượng và thương phẩm vẫn ổn định.
Cân đối ngân sách dự kiến có bội chi ở mức 0,7% GDP trong năm 2023 khi chính sách tài khóa vẫn phần nào hỗ trợ cho nền kinh tế, nhưng Chính phủ sẽ quay lại vị thế tài khóa thận trọng hơn trong năm 2024, phù hợp với chiến lược phát triển ngành tài chính giai đoạn 2021 – 2030.
Tài khoản vãng lai dự kiến sẽ tiếp tục được cải thiện, nhờ xuất khẩu sẽ phục hồi ở mức khiêm tốn, số lượt du khách quốc tế tiếp tục phục hồi, và nguồn kiều hối vẫn đứng vững.
Tuy vậy, Ngân hàng Thế giới cũng lưu ý, triển vọng nêu trên còn phụ thuộc vào một số rủi ro đang gia tăng.
Tăng trưởng thấp hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển và Trung Quốc có thể suy giảm nhu cầu bên ngoài về các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Cùng với đó, chính sách tiền tệ bị thắt chặt hơn nữa ở các nền kinh tế lớn và phát triển có thể sẽ lại nhen nhóm gây áp lực tỷ giá cho VND, dẫn đến dòng vốn tháo chạy ra ngoài.
Nhìn từ trong nước, những rủi ro và nguy cơ dễ tổn thương về tài chính gia tăng đòi hỏi phải theo dõi sát sao và tiếp tục đổi mới.
Trong ngắn hạn, chính sách tài khóa nên tiếp tục hỗ trợ cho tổng cầu. Ngân sách đầu tư được triển khai đầy đủ, kết hợp với các bước nhằm tháo gỡ ách tắc về thủ tục đầu tư công, là cách để nâng đầu tư công, qua đó sẽ hỗ trợ cho tổng cầu.
Chính sách tiền tệ tiếp tục nới lỏng được cho là phù hợp, nhưng tiếp tục cắt giảm lãi suất sẽ làm gia tăng chênh lệch lãi suất với các thị trường trên toàn cầu, có khả năng gây áp lực đến tỷ giá.
Để giảm nhẹ rủi ro tài chính đang gia tăng, các biện pháp nâng cao tỷ lệ vốn của các ngân hàng và tăng cường khung giám sát ngân hàng là cách để đảm bảo ổn định và khả năng chống chịu của khu vực tài chính.