Thương hiệu nông sản Việt vẫn "yếu" ở thị trường Châu Âu

Nếu tận dụng tốt nhất các lợi thế có được từ FTA, nông nghiệp Việt Nam có thể đưa nông sản giá trị cao đến với thế giới, đem lại lợi ích bền vững cho doanh nghiệp, cho người nông dân và các bên liên quan trong chuỗi giá trị nông nghiệp.

Ông Paul-Antoine Croize, Phó Chủ tịch Ủy ban Ngành Kinh doanh Thực phẩm,
Nông nghiệp & Nuôi trồng Thủy sản EuroCham, cho rằng hàng Việt Nam còn nhiều dư địa để mở rộng thị phần tại châu Âu.

Có FTA tốt nhưng chưa tận dụng hết

Bà Hoàng Lê Trang, Quản lý dự án “Tăng cường năng lực xuất khẩu cho DNNVV trong ngành hàng rau quả, gia vị Việt Nam”, Tổ chức Oxfam tại Việt Nam, cho biết, trong tiến trình hội nhập kinh tế mạnh mẽ, Việt Nam đã tham gia hàng loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới như: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA); Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).

Những cam kết sâu rộng về tự do thương mại đã tạo động lực mạnh mẽ cho xuất khẩu nông sản Việt Nam, duy trì tăng trưởng ngay cả trong bối cảnh COVID 19 tác động nghiêm trọng đến chuỗi cung ứng toàn cầu. Mặc dù vậy, theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn, tỷ trọng và giá trị xuất khẩu nông sản từ Việt Nam sang các nước thành viên các FTA còn chưa tương xứng với tiềm năng thị trường cũng như các lợi thế mà Việt Nam có được trong sản xuất nông nghiệp.

nông sản Việt Bà Hoàng Lê Trang, quản lý dự án “Tăng cường năng lực xuất khẩu cho DNNVV trong ngành hàng rau quả, gia vị Việt Nam”, Tổ chức Oxfam tại Việt Nam

Đơn cử việc xuất khẩu mặt hàng rau quả vào các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU): Việt Nam có khả năng canh tác quanh năm với đa dạng các chủng loại rau củ, hoa quả; kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng tốt cả về lượng và giá trị sau EVFTA. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa chiếm đến 1% dung lượng thị trường lớn nhất thế giới này.

Còn ông Paul-Antoine Croize, Phó Chủ tịch Ủy ban Ngành Kinh doanh Thực phẩm, Nông nghiệp và Nuôi trồng Thủy sản EuroCham cho rằng, nông sản Việt vẫn “lép vế” tại Châu Âu do hạn chế trong thiếu chế biến sâu, thiếu thương hiệu và tiếp thị ra thị trường.

Phân tích cụ thể hơn, ông Paul-Antoine Croize lấy ví dụ về xuất khẩu tiêu và cho biết Việt Nam đứng thứ nhất về lượng xuất khẩu hạt tiêu nhưng chỉ đứng thứ 8 về giá xuất khẩu hạt tiêu. Hơn 80% nông sản xuất khẩu của Việt Nam thậm chí không có thương hiệu, logo, nhãn mác của Việt Nam. Những khoảng cách giá đó là do thiếu thương hiệu và thiếu chế biến.

Thiếu thương hiệu cũng dẫn đến khó tiếp thị với người tiêu dùng, khó giành được niềm tien của khách hàng địa phương nên khó thâm nhập được vào hệ thống phân phối bản lẻ Châu Âu.

Chuyên gia từ EuroCham cho rằng, để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp nhỏ cần sự hỗ trợ và đầu tư của các nhóm, doanh nghiệp hoặc cơ quan có ảnh hưởng lớn hơn. Ví dụ điển hình là Acai, một loại trái cây của miền Bắc Brazil có giá trị dinh dưỡng tuyệt vời nhưng chưa được biết đến rộng rãi. Cho đến khi gia đình Gracie (gia đình nổi tiếng trong thế giới Ju-Jitsu và MMA của Brazil) tiếp thị nó như một loại siêu thực phẩm thì ngày nay, Acai mới được bán với giá cao ở khắp châu Âu.

Chú trọng liên kết, sản xuất bền vững

Quảng cáo

Để nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam, tận dụng các lợi thế có được từ FTA, bà Hoàng Lê Trang cho rằng cần có 3 vấn đề đáng chú ý:

Thứ nhất, quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn được quốc tế công nhận để giúp nông sản Việt đáp ứng các yêu cầu bắt buộc của quốc gia nhập khẩu, mà còn là phương tiện để chinh phục khách hàng tại các thị trường này.

Thứ hai, tăng cường áp dụng các thực hành sản xuất bền vững và kinh doanh có trách nhiệm trong nông nghiệp. Bởi các thị trường nhập khẩu lớn như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản…, ngày càng quan tâm nhiều hơn đến cách thức doanh nghiệp ứng xử với môi trường, với người lao động, với nhà cung cấp quy mô nhỏ và các bên liên quan khác trong quá trình tạo ra sản phẩm.

Việc áp dụng các thực hành sản xuất bền vững, kinh doanh cũng giúp gia tăng giá trị sản phẩm và cơ hội xuất khẩu nông sản, mặt khác giúp định hình các chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững, giảm thiểu tác động đến môi trường, chia sẻ lợi ích hài hòa giữa các bên, đặc biệt là đảm bảo lợi ích cho các nhà sản xuất quy mô nhỏ ở vị trí đầu chuỗi.

Thứ ba là tăng cường quản lý sản xuất theo mô hình chuỗi để sản phẩm đầu ra đủ chất lượng, đúng tiêu chuẩn, mang lại giá trị kinh tế cao. Điều này cũng giúp chia sẻ lợi ích kinh tế một cách công bằng cho các bên tham gia chuỗi thông qua các thỏa thuận hợp tác, hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp (nông hộ, HTX) thay vì các giao dịch thương mại mang tính chất thời vụ.

thuong-hieu-nong-san-viet-van-yeu-o-thi-truong-chau-au_64a11482c709f.png

Cũng cùng quan điểm, ông Paul-Antoine Croize cũng đưa ra 3 điểm lưu ý để đưa nông sản Việt vào Châu Âu:

Thứ nhất, hiểu biết sâu sắc về thị trường đích trước khi quyết định ưu tiên sản phẩm nào. Rượu vang sủi là sản phẩm khác biệt và được tìm kiếm nhiều trên toàn thế giới, trái ngược với các loại cây trồng khác ở vùng Champagne.

Thứ hai, sự tham gia mạnh mẽ của chính phủ để bảo vệ thương hiệu và quảng bá nó.

Thứ ba, nỗ lực nâng cao nhận thức trong toàn bộ chuỗi giá trị để đảm bảo chất lượng sản phẩm và năng lực tiếp thị và bán hàng trong khu vực nhằm duy trì giá trị gia tăng ở cấp độ khu vực.

Ông Paul-Antoine Croize cho biết, cách tiếp cận OCOP cho lợi nhuận tốt hơn và hấp dẫn hơn đối với lực lượng lao động địa phương. Nhưng không phải tất cả các loại cây trồng đều đưa vào OCOP.

Bên cạnh việc đáp ứng tiêu chuẩn GlobalGap, cần chú trọng phát triển R&D và tiếp thị ra nước ngoài để đáp ứng nhu cầu quốc tế. Bước tiếp theo để giúp đáp ứng nhu cầu có thể là tạo điều kiện thuận lợi cho việc bố trí các công ty ở thị trường đích tham gia vào nhóm R&D và tiếp thị để cải thiện chất lượng sản phẩm.